Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên
Phan_5
Cho đến ngày nay, cạnh một số giếng cổ vẫn còn bảo tồn những văn tự liên quan đến việc đào giếng và dùng nước năm nào, nội dung khắc trên đá đã bị bào mòn cùng với gió mưa năm tháng. Thế nhưng, từ những dấu tích xa xưa đã xuyên qua thời gian, vẫn còn nghe thấy thanh âm huyên náo nơi phố chợ, những câu từ dung dị ấy cứ xoay vòng bên miệng giếng, đi cùng mỗi sớm sớm chiều chiều. Hàng trăm năm, nghìn năm trôi qua, có rất nhiều thương gia Huy Châu về quê uống một chén rượu sinh mệnh máu hòa lẫn rượu, tưởng nhớ ân tình của nước, nghĩa lớn của nước. Họ từng rũ bỏ một phần lớn thời gian ở quê nhà, nên phải tìm lại trong dòng nước mát của giếng xưa.
Những hạt bụi lướt qua ánh nắng mặt trời, khe khẽ rớt xuống, lại lần nữa khiến dòng suy tưởng lắng đọng đến mức trong vắt. Từ đường ở Huy Châu là thánh điện của tông tộc, nối liền tình quê khó dứt của người Huy Châu với những quy ước làng xã trang nghiêm. Tòa kiến trúc thần thánh đó cất giấu lịch sử gia tộc của người Huy Châu, bảo tồn những lời dạy của thánh hiền đi trước. Nó cũng từng già nua trong lặng lẽ, nhưng mỗi một thịnh suy đã qua đều xứng đáng để trăm đời hậu thế học hỏi.
Ngước trông mái hiên chót vót cứng cỏi của từ đường, dường như ở đó chứa đựng một sức mạnh to lớn xiên thẳng tận trời cao, đo lường sự lâu dài và sức nặng của văn hóa gia tộc Huy Châu bằng một phương thức trầm lặng. Bước qua bậc cửa gỗ cao cao đó, va phải những môn thần uy vũ, khiến người ta không khỏi nghiêm trang kính cẩn. Những vòng khoen trên cánh cửa bị năm tháng làm hoen rỉ, dường như đang khóa chặt nhân quả của ai trong vô hình. Đứng giữa sảnh đường tĩnh mịch, nhìn người đời này và người xưa đối diện nhìn nhau, nghe những lời đối thoại bằng tâm linh của họ.
Khoảnh khắc đó bạn mới hiểu rằng, người xưa và người nay không hề có khoảng cách, cho dù thời gian đã qua lâu nhưng vẫn để lại dấu ấn, mà người Huy Châu lại phỏng theo những dấu ấn này để bảo tồn những phong tục tập quán cho đến ngày nay. Họ dùng các phương thức mộc mạc như giấy dán màu, bộ đèn đục lỗ, xiếc chồng người, múa rồng… để cúng tế tổ tiên, giữ một lòng tôn kính với thánh hiền, một tình yêu nhiệt thành với gia tộc, tiễn đưa buổi tịch dương của thời viễn cổ, chào đón ánh bình minh của thời đại ngày nay.
Đi trên những con đường lát đá xanh nhỏ hẹp, ánh mặt trời rơi rớt trên góc thềm đã mài sáng những ký ức mơ hồ. Một sân khấu kịch nằm vắt qua làn khói xanh lượn lờ, lặng lẽ nói cho người đi đường biết nó đã từng hoa lệ ra sao. Đây là sân khấu kịch Huy Châu, sinh trưởng trong dân gian, lưu truyền trong dân gian, cũng tỏa sáng trong dân gian. Sân khấu của người Huy Châu được dựng lên vào dịp hội hè, dâng rượu lên thần linh, cúng tế và một số ngày lễ tết đặc biệt.
Kiến trúc của sân khấu đa phần đơn giản, khán đài làm bằng gỗ, ván sàn cũng bằng gỗ, thêm vài hình vẽ màu, gửi gắm sự đơn sơ giản dị của văn hóa Huy Châu. Chiêng trống và nhị hồ vang lên mở màn dạo đầu trang nhã đưa tình, trên sân khấu tiếng ca khe khẽ, điệu múa chầm chậm, dưới sân khấu biển người sục sôi. Những nghệ nhân đó mỗi khi lên sân khấu sắm vai công hầu khanh tướng đều tô vẽ kỹ lưỡng, diễn những màn bi hoan ly hợp của người khác. Mà khán giả dưới sân khấu cũng chăm chú tập trung, thưởng thức những buồn vui mừng giận của người đời.
Chẳng ai là vai chính, họ chỉ là nhân vật làm nền cho một hí khúc, bày tỏ nỗi lòng thương cảm và hạnh phúc mà thôi. Và ai cũng đều là vai chính, trên sân khấu đời người hỗn tạp, diễn trăm vị cuộc sống, nhân tình ấm lạnh. Huy kịch chất phác mà tròn trịa mang theo hương thơm của bùn đất núi sông, bằng nghệ thuật dân gian và phong tục thú vị độc đáo, hát trên khắp các cao lâu sơn thủy của Giang Nam, cũng diễn xướng trên mọi ngóc ngách đường phố của Huy Châu. Rất nhiều giai đoạn của đời người đều bắt đầu trong một màn kịch này và kết thúc trong một màn kịch khác.
Giữa tháng năm âm thầm mải miết trôi, không hay là ai đã làm đổ nghiên mực cổ, nhuộm cả một vùng Huy Châu rộng lớn, khiến non nước như thêu như gấm thấm đẫm trong thủy mặc ẩm ướt. Men theo dòng chảy, ngược lại dòng lịch sử lâu đời của Huy Châu cổ kính, còn có vô vàn phong tục dân gian phong phú sắc màu của nơi đây, khiến ta thu hoạch được một niềm vui thực thụ trong cuộc đời rộng lớn này.
Khi dòng suy tưởng sáng suốt xuyên suốt lãnh địa tinh thần, bước chân của người khai phá càng lúc càng đến gần, Huy Châu cổ kính không còn là một bức tranh thủy mặc treo trên bức tường Giang Nam nữa. Nó phô bày phong thái thuần hậu tự nhiên với toàn thế giới bằng sự phồn vinh thịnh vượng của một dân tộc, để lại những gợn sóng lăn tăn mỹ lệ trong lòng muôn vàn chúng sinh.
Năm tháng Ô Trấn
Dường như có một khoảng thanh xuân ẩm ướt đã lãng quên ở Ô Trấn của Giang Nam, còn có những dĩ vãng đã qua cần dịu dàng nhớ lại. Thế là sẽ nhớ đến Giang Nam trong hoa hạnh mưa khói, nhớ đến miền sông nước xanh biêng biếc trong gió xuân. Nhiều năm về trước đã từng thong thả đợi chờ, nhiều năm về sau vẫn bình thản kiếm tìm. Chỉ một cái quay người vô tình, cô gái tay cầm chiếc ô giấy dầu, lòng nặng nỗi u sầu, nhẹ nhàng bước đi trên con ngõ nhỏ, đi đến cây cầu mơ mộng, bước vào trong câu chuyện của tháng năm trôi chảy, không biết có thể thoát ra hay không?
Sinh hoạt một ngày ở Ô Trấn bắt đầu trong tiếng mái chèo khỏa sóng ì oạp, một cây sào trúc thật dài như trêu ghẹo thời gian tĩnh lặng ngưng đọng, nước sông trong veo lấp lánh thấm ướt những nhớ nhung dễ rung động đó. Còn có một chiếc thuyền đậu bên bờ, âm thầm bảo vệ những giấc mộng say nồng trong tiểu trấn. Chúng chăm chú nhìn cái bóng đen trắng của những căn nhà cổ xưa đó, suy ngẫm về tang thương ngàn năm chìm trong con nước.
Nước sông trầm lặng, nó cùng Ô Trấn lặng lẽ tiễn đưa xuân thu, lại vội vàng đón xuân hạ, từ khi hoa nở đến khi hoa tàn, từ khi duyên khởi đến khi duyên diệt. Rất nhiều năm sau, tất cả đều giống như trước, chỉ là hết thảy chuyện cũ theo định mệnh trôi đi, đã trở thành hồi ức. Những kiếp người bị ướt đẫm nước sông, mang theo nét yểu điệu của Giang Nam, xen lẫn phong vận của miền sông nước, giữa năm tháng mơ màng lại một lần nhớ nhung như ngàn ngọn buồm lướt qua. Ô Trấn như xưa, dòng sông nhỏ vẫn như xưa, khi gió xuân hây hẩy đi vào giấc mộng, trăng sáng vằng vặc rót vào trong chén, ai người còn bồi hồi nơi phương xa?
Xuyên qua phong cảnh thanh nhã và kín đáo, giữa ý thơ cảm nhận được cái mênh mang của thời gian, mà ánh nắng ấm áp đã chứng thực sự chân thực của sinh mệnh. Cầu đôi Phùng Nguyên[9] đậu hờ hững giữa hiện thực và mộng cảnh, mang theo hơi thở hiện đại, lại hàm chứa ý vị truyền thống, khiến khắp Ô Trấn phồn hoa mà không xô bồ, lạc giữa hồng trần mà không già cỗi.
[9] Một cây cầu cổ ở Ô Trấn, tương truyền có tục nam đi bên cầu trái, nữ đi bên cầu phải.
Cây cầu cổ cũng mang nặng ký ức, nó vẫn nhớ đã từng có sự gặp gỡ trong trẻo thế nào, lại nhớ đã từng bỏ lỡ những đẹp đẽ ra sao. Nó cũng nhặt lại rất nhiều buồn đau tuổi trẻ, cũng cất giữ biết bao mộng tưởng thanh xuân. Nó lặng lẽ bắc ngang dòng nước, đợi chờ người có duyên đi đến ào ào như gió, rồi rũ bỏ tất cả.
Nơi này lưu giữ dấu chân của Văn và Anh[10], lưu giữ dấu chân của hàng nghìn hàng vạn khách đi đường, họ tay nắm tay đứng trên cầu, dựa vào lan can im lặng ngắm cảnh quan của tiểu trấn, chỉ cảm thấy năm tháng đã qua thành hư ảo, chỉ còn lại một nháy mắt, nhưng nhớ nhung lại là cả đời.
[10] Tên hai nhân vật chính trong bộ phim truyền hình “Năm tháng như nước” (Tự thủy niên hoa), do Hoàng Lỗi và Lưu Nhược Anh thủ vai chính, một phần bối cảnh là Ô Trấn.
Hơi hướm cổ kính toát ra từ trên ván cửa khô mục, từ trong bức tường loang lổ, từ những khe hở của đá xanh, lôi kéo vô số người đi xa dõi về. Dường như chỉ cần hễ sơ sểnh, là sẽ lạc vào trong một khung cảnh quen thuộc, khiến bạn mãi lâu sau mới có thể thoát ra. Dạo bước với tâm tình nhàn tản, chẳng màng đến lịch sử lâu đời ra sao, chẳng hỏi đến tang thương dấu tích, chỉ nhớ lại những nhung nhớ khó tả thành lời. Cho dù là phường rượu cũ kỹ hay là phường vải sáng ngời, đều có thể kích thích bạn tưởng tượng đến vô hạn.
Dưới làn nắng mỏng manh, hâm một bình rượu hoa hạnh, hưởng thụ cái nhàn nhã của tháng ngày thơ và rượu. Nhìn những mảnh chăn in hoa màu lam phơi trên những cây sào cao cao đang phấp phới trong làn gió, ngày xuân ý vị bao phủ thời gian, mà dường như thanh xuân chưa từng rời khỏi. Chìm đắm trong những cổ vật cũ kỹ và cảm xúc nhớ nhung đó, không sức mạnh thế tục nào có thể quấy rầy bạn, vì khi bạn còn đang mơ màng, Ô Trấn đã âm thầm lặn sâu trong trái tim bạn, từ đó tâm tư sâu lắng, khắc cốt ghi tâm.
Con ngõ nhỏ dài hun hút như khóc như than trong làn khói mù, cô gái mặc chiếc áo vải in hoa lam đó có thể là con gái Lâm gia[11] dưới ngòi bút của Mao Thuẫn[12], nàng từ trang bìa sách ẩm ướt khoan thai bước tới, từ trong cửa hàng Lâm gia cũ kỹ bước tới, bước vào nhà cũ của Mao Thuẫn, bước vào đình viện thâm sâu. Trong sảnh đường, Mao Thuẫn tiên sinh đang cầm bút trầm tư, ánh mắt chăm chú nhìn về phương xa đó, mang một vẻ tỉnh táo và khoáng đạt. Chính giữa thời đại đầy mây gió thét gào đó, ông đã gieo một tư tưởng tiến bộ, thắp một ngọn lửa tinh thần hừng hực, sinh động trong từng câu chữ, lưu lại giữa Ô Trấn.
[11] Một nhân vật trong truyện “Cửa hàng nhà họ Lâm” của nhà văn Mao Thuẫn, miêu tả đời sống của người Trung Quốc (ở đây là gia đình nhà họ Lâm) đã có nhiều thay đổi khi cuộc kháng chiến chống Nhật nổ ra.
[12] Mao Thuẫn (1896 – 1981): Nhà văn nổi tiếng Trung Quốc, người Gia Hưng, Chiết Giang, ông là nhà văn có nhiều cống hiến trong nền văn học cách mạng Trung Quốc. Hiện có giải thưởng văn học Mao Thuẫn, là một giải thưởng văn học cao quý.
Trong không gian thoang thoảng một mùi thơm thanh khiết của hoa mai từ trong sân thoảng tới, giữa cơn mơ màng chuyện xưa như diễn lại, ngày hôm nay giống như ngày hôm qua. Rất nhiều hiện thực còn xa vời hơn mộng tưởng, giống như rất nhiều huyên náo còn cô độc hơn yên tĩnh. Đứng dưới ánh mặt trời, nhìn hoa mai nở trong cô đơn, cánh hoa thơm tinh khiết khoáng đạt xuất chúng, cao ngạo lạnh lùng hơn bất cứ đóa hoa nào.
Ánh nắng ban chiều có một vẻ đẹp uể oải và buồn ngủ, làm đôi mắt díp lại mơ màng, cứ thế say giấc nồng trong một quán trà cổ kính. Đun một bình hoa cúc, nấu tâm sự thành hương thơm trang nhã. Dựa vào bậu cửa sổ, lắng nghe tiếng đàn sáo réo rắt, gẩy lên giai điệu Giang Nam. Bình đàn[13] của Giang Nam đã tỏa sáng rạng rỡ ở Ô Trấn – vùng sông nước đầy văn hóa này, giọng Ngô mềm mại, thú vị vô cùng, những câu chuyện quen thuộc đó lại càng ý vị sâu xa hơn qua tiếng hát, lời kể uyển chuyển của nghệ nhân.
[13] Bình đàn: Một loại hình văn nghệ dân gian, lưu hành ở vùng Giang Tô, Chiết Giang, Trung Quốc.
Tiếng tơ tiếng trúc khi vút lên như vạn ngựa băng băng, khi bình lặng như trăng thanh gió mát, khi phiêu diêu như suối ngọc róc rách, khi trầm tĩnh như nước thu sắc trời. Khoảnh khắc này, chính ở Ô Trấn cổ kính mộc mạc, chính ở quán trà nhớ chuyện cũ người xưa, uống một bình trà trong, nghe một khúc bình đàn, vứt bỏ hết ngày tháng, làm một con người thanh thản tự tại. Có câu rằng người nhạt như cúc, mà thế sự cũng nhạt như cúc chăng? Khi những ký ức sống động nay tan biến trong cuộc đời ngắn ngủi, ai còn nhớ đến một quãng thời gian ấm nồng trong dĩ vãng?
Con ngõ nhỏ dài hun hút trong khói sương, bị thời gian hoài niệm nhuộm màu; câu chuyện cô lẻ đằng sau cánh cửa gỗ, bị năm tháng ố vàng phủ bụi mờ. Rất nhiều người đã lướt qua những người bên cạnh, giữa hai người đời này kiếp này cũng không nhớ đã từng có lúc tương phùng đẹp đẽ nhường ấy. Từng tương phùng nơi cổ trấn Giang Nam, từng in lồng dấu chân nhau, thậm chí đã từng trao nhau ánh mắt.
Đến khi tháng năm già cỗi, nhớ lại dĩ vãng đã nhạt nhòa trước kia, chẳng ai hay biết ai, bởi vì cả hai đều là khách qua đường, là khách qua đường ở Giang Nam, là khách qua đường ở Ô Trấn. Cuộc gặp gỡ ấy như một vở rối bóng, bắt đầu và kết thúc trong hoa lệ và hư ảo. Ngồi trong hành lang tĩnh mịch, đợi một vở rối bóng mở màn, rồi dưới ánh đèn dìu dịu, đắm mình vào câu chuyện tuyệt mỹ trong vở rối.
Nữ: Hoa dại đón gió rung rinh, dường như đang lắng nghe tâm sự. Cỏ xanh nhè nhẹ lay động, lưu luyến triền miên vô tận. Cành liễu chớm xanh, la đà trên làn nước biêng biếc, khuấy động tấm lòng thiếu nữ dập dềnh như sóng nước. Tại sao mùa xuân mỗi năm đều đến đúng hẹn, còn phu quân đi xa của ta năm này qua năm khác lại bặt tin?
Nam: Xa nhà rời nước, chẵn tròn ba năm, chỉ vì Trường An huy hoàng lộng lẫy trong mộng tưởng. Nơi đô thị đầy rẫy những hiểm nguy thần kỳ, thỏa mãn tâm nguyện hùng tráng của một đấng nam nhi. Giờ đây rốt cuộc đã áo gấm về làng, lại gặp tiết trời xuân chốn cũ, nhìn nơi này dòng nước xuân xanh, hoa đào ngập suối, nhìn núi xanh như mày ngài, hết thảy đều chẳng đổi thay, cũng không biết nương tử – tân nương một đêm đã ly biệt liệu có còn xuân sắc như xưa không? Người bước đến là con gái nhà ai, dung nhan rạng rỡ, mỹ lệ phi phàm. Vị cô nương này, xin hãy dừng gót ngọc, nàng có biết mình đã phạm phải lỗi gì không?
Nữ: Vị tướng quân này, rõ ràng vó ngựa của chàng đã hất đổ làn trúc của ta, chàng nhìn xem con đường này rộng tít tắp tới tận trời xanh, cớ sao chàng lại khiến con ngựa đáng ghét này vẩy bùn lên người ta, còn trách ngược, đổ lỗi lầm cho ta?
Nam: Lỗi của nàng chính là đẹp tựa tiên nữ, nàng thướt tha yểu điệu khiến tay ta chẳng nghe lời, lông bờm xổ tung của con ngựa đã che lấp mắt ta, không nhìn thấy đường sá núi sông, chỉ thấy đen sẫm một màu. Gương mặt kiều diễm của nàng khiến con ngựa dưới thân ta lảo đảo, quên mất rằng chủ nhân của nó uy phong nhường nào.
Một đoạn đối thoại khiến lòng người ngả nghiêng như ngọn cờ trước gió, khiến ánh nắng Ô Trấn cũng lóng lánh ánh lên thân tình thắm thiết. Trong tiết xuân muôn hồng nghìn tía gặp gỡ thiếu nữ như hoa, lại cảm thán tháng năm như nước chảy. Cô nương tay xách chiếc làn trúc đó là con gái Lâm gia trong cửa hàng nhà họ Lâm, hay là Mặc Mặc trong “Tháng năm như nước”, hoặc là con gái nhà nông nào ở Ô Trấn? Họ ôm ấp niềm vui đơn thuần, nâng niu hương thơm xanh ngát, bước đi dưới sóng liễu trên con đường cổ kính. Họ là phong cảnh của Ô Trấn, đợi người bước vào giấc mộng, mà Ô Trấn lại là phong cảnh người qua đường, tô điểm cho giấc mộng của người khác. Giữa những ngày thi ý nhàn tản, đôi bên lưu lại nhân quả không tên, chỉ nhớ rằng đã từng tương phùng khi ngoái nhìn, còn có ly biệt phút quay người.
Ô Trấn trong sắc hoàng hôn, giống như một cụ già bình thường, cất giữ hết thảy những câu chuyện có thể cất giữ, lại quên đi hết thảy những người cần phải lãng quên. Bước đi trên con đường hồng trần, giữa giấc mộng thời gian, mây khói chuyện xưa, mơ xanh quá khứ trong lịch trình nhớ lại kiếp người, tất đều đượm vẻ ấm nồng và thanh nhã tựa như ngọc cổ.
Ô Trấn cũng là một viên ngọc cổ đã nhuộm sắc hoa xuân trăng thu, để những người qua lại quý trọng bằng cả tâm hồn. Tới với giấc mộng trong vắt, rời xa giấc mộng chưa tàn. Chỉ là ngày tháng bình thường, chỉ là ký ức bình dị đã trôi đi trong ánh nắng lấp lánh lay động. Những năm về sau, thấy hoa rơi lại hoài niệm Giang Nam trải bao xuân thu tươi đẹp, nhớ lại Ô Trấn một thời năm tháng như nước chảy triền miên.
Tương phùng Huệ Sơn
Khi đến, đã biết số phận định là cô độc. Không có dáng vẻ vội vã, không có tâm tình buồn vui, trong ban mai của buổi chớm thu, chỉ bình thản đi lại như thế. Là duyên phận dẫn dắt, hay là số mệnh an bài, đều không quan trọng. Đến Huệ Sơn, sẽ tìm kiếm những gì? Là bóng dáng dần nhạt nhòa của vương triều thời cổ, thiên hạ đệ nhị tuyền nức danh trong trường đình biệt viện, cổ sát Giang Nam giữa chốn non xanh thâm u, hay là vườn cảnh cổ xưa quanh co lắt léo? Non nước tú lệ của vùng Huệ Sơn Vô Tích có thể nói cho chúng ta những điều gì?
(1) Thiên hạ đệ nhị tuyền
Cơn gió thuở chớm thu đã se sắt hơi lạnh, thỉnh thoảng lá rụng lác đác bay lả tả, người đi chầm chậm thả bước trên đường, nhưng không hề cảm thấy tiêu điều.
Một tia nắng đã khiến tâm tình dễ chịu hơn, thử đi tìm một nơi có nước chảy, đi tìm tiên sinh mù kéo nhị hồ A Bỉnh[14] năm xưa.
[14] A Bỉnh tiên sinh: tên thật là Hoa Ngạn Quân, nhạc sĩ dân gian, đồng thời là đạo sĩ. Vì mắc bệnh nên mắt bị mù, ông khổ công nghiên cứu âm nhạc Đạo giáo, không ngừng nâng cao, và hấp thu rộng rãi các làn điệu âm nhạc dân gian, cả đời tổng cộng sáng tác và diễn tấu hơn 270 khúc nhạc dân gian. Hiện còn bảo tồn được sáu bài, gồm: “Nhị Tuyền ánh nguyệt”, “Thính tùng”, “Xuân hàn phong khúc” (nhị hồ) và “Đại Lãng đào sa”, “Long thuyền”, “Chiêu Quân xuất tái” (tì bà).
Nhị Tuyền, dường như mọi thứ ở nơi đây đều liên quan đến suối mát trong lành.
Con đường nhỏ lát đá xanh, cho dù đã in dấu chân của biết bao người đi, vẫn cổ kính rêu xanh. Sàn đá nơi này dường như vĩnh viễn mang dấu ấn ẩm ướt, những quá khứ không thể xóa nhòa đó vẫn trong trẻo như xưa giữa dòng năm tháng già nua.
Hành lang dài quanh co tọa lạc giữa đầm, một cơn gió nhè nhẹ thổi qua. Dựa lan can ngắm hoa sen, những cánh hoa tàn tạ, đài sen căng đầy nuôi những hạt sen non, khiến người ta cảm nhận được một niềm vui sướng của sự thu hoạch. Nhà thơ thời Đường Lý Thương Ấn có thơ rằng: “Lưu đắc tàn hà thính vũ thanh.” (Giữ được sen tàn nghe tiếng mưa) Cỏ cây chốn nhân gian, khô héo là chuyện thường. Ngàn vạn sự vật nơi thế gian đều là phong cảnh, chỉ là tâm trạng khi ngắm cảnh khác nhau mà thôi.
Hai cánh cửa lớn màu vàng sẫm mở ra chào du khách, dường như vô tình nhắc nhở người ta, nơi đây đã từng phồn hoa và đầy thi vị. Khẽ chạm vào khóa đồng trên khoen cửa, mong sao có thể trùng với dấu tay của một văn nhân hoặc một trí giả thời cổ nào đó. Có lẽ như thế mới có thể xuyên qua thời gian không gian mưa gió, cùng người ấy có một mối tâm ý tương thông thoảng qua.
Bước vào bậu cửa, lọt vào tầm mắt là năm chữ lớn: Thiên Hạ Đệ Nhị Tuyền. Trắng đen đan xen hút mắt, những điêu khắc im lìm trên vách đá, cho thấy danh hiệu đẹp hết sức đặc sắc của chúng. Mái hiên trên tường đá dây leo phủ kín, một vài cành cây xanh mướt tự do vươn dài ra những hướng khác nhau, cho đến nơi mà chúng muốn dừng lại – chốn về của đời người.
Trường đình cách đó không xa vang lên khúc cổ cầm dìu dặt réo rắt, ở đó có một cụ già diễn tấu bản “Nhị Tuyền ánh nguyệt” cho người khác nghe. Một thân áo dài màu xanh, đôi tay đầy nếp nhăn, khung cảnh mơ hồ, luôn khiến người ta ngộ nhận rằng ông chính là tiên sinh A Bỉnh năm nào. Mà những ngày trăng sáng sao thưa của năm xưa đó, khi A Bỉnh đến nơi non xanh suối biếc diễn tấu nhị hồ, liệu có diễn ra một cuộc tương phùng rượu trắng một bầu hay không?
Tháng năm như nước, vẫn luôn tham luyến cuộc vui. Những câu chuyện được cất giấu nơi sâu thẳm của thời gian, hoặc phồn hoa, hoặc lạnh lẽo, đến nay đều không còn tồn tại. Mà người đời sau đi xuyên qua những hành lang thông tới qua khứ, rốt cuộc có thể tìm được những gì?
Khi chúng ta cúi xuống nhìn Nhị Tuyền danh chấn thiên hạ đó, trong lòng khó tránh nảy sinh cảm giác hụt hẫng khôn xiết. Hàng lan can sắt ngăn du khách ở bên ngoài giếng cổ, năm đó mạch suối có hai nguồn chảy sống động biết bao, đến nay đã thành dòng nước chết. Không còn nhìn thấy nước trong văn vắt chảy róc rách sủi bọt trắng, còn đâu thảm rêu xanh rì ẩm ướt ven bờ. Chiếc giếng cổ có thành giếng bằng xi măng bị hàng rào bao quanh, trở thành một phong cảnh cho du khách thưởng lãm.
Năm ấy, đặc sứ từ kinh thành tới, đường dài rong ruổi chỉ vì muốn lấy nước Nhị Tuyền, đem dâng cho đế vương đun trà nấu nước. Nhưng nước suối đã khô cạn, niên đại tinh tế phong nhã ấy đã dần dần lùi xa. Một chén trà thơm, vài quyển thi thư, ngày tháng mộng sâu thăm thẳm bên ô cửa sổ nhỏ không biết đã đi về đâu, mà lịch sử thì chưa từng kể lại.
Đi men theo con đường lát đá có mấy phường trà cổ kính, trang nhã mở gần hành lang, dăm du khách ngồi xuống nghỉ chân thưởng trà. Cho dù nước không phải là nước của Nhị Tuyền, trà cũng không pha ra được mùi vị năm xưa, chỉ là thân ở chốn cổ tích non ngàn, đã tự nhiên có một tâm tình nhàn tản khác biệt rồi.
Gió lười biếng thổi, mây trôi tự tại. Ngồi trên ghế trúc, uống một bình nhàn trà, từ khi vị đặc đến khi vị nhạt, từ ấm sang nguội. Trà của Nhị Tuyền thích hợp cho những người hoài cổ thưởng thức; trăng của Nhị Tuyền thích hợp cho những người ưa nằm mộng ngắm trông.
Thiều quang đến đi lặng lẽ, cũng như rất nhiều duyên phận không thể nói thành lời, khởi diệt bất định. Rời Thiên hạ đệ nhị tuyền, những người đó lại vội vã bước đi, và sẽ đến một cuộc hẹn chưa từng gặp gỡ khác.
(2) Huệ Sơn cổ sát[15]
[15] Cổ sát: chữ Phạn, “sát sắc” là chùa Phật, “cổ sát” là cảnh chùa xưa.
Chùa miếu còn chưa thấy, đã nghe thấy tiếng chuông vang vẳng thinh không, dường như đang chiêu gọi những linh hồn tìm kiếm thắng cảnh chốn thâm u. Giang Nam có rất nhiều chùa cổ, chùa Huệ Sơn chỉ là một trong hàng vạn số đó. Gặp gỡ nơi này, chính là túc duyên mà Phật nói tới.
Men theo bậc thang đi lên trên, đi qua mấy tầng cửa cổ, xuyên qua cổ thụ um tùm. Ngước mắt nhìn bốn chữ khiến người ta chăm chú dán mắt: Bất Nhị Pháp Môn[16]. Đây có phải là tượng trưng cho một loại chấp trước hay không? Có lẽ người bước vào cửa Phật, tin nghe nhân quả, là thực sự không còn nảy sinh trần niệm. Có người nói, đây là một loại lánh đời, cũng có người nói, đây là tu hành. Tóm lại, tại bồ đề đạo tràng này, nghe chuông trống Phạn âm là có thể trải qua cuộc sống thanh tịnh vô cầu một bát thiền trà, một chiếc mõ như thế.
[16] Bất Nhị Pháp Môn: Còn gọi là Pháp Không Hai, là một pháp môn trong đạo Phật, dành cho các hành giả ở cõi Ta Bà đi khỏi lạc đường. Cốt yếu của pháp môn này là để chứng minh rằng: “Những sự vật, sự việc ở cõi Ta Bà này là có thật”, cốt để đưa chúng sinh thoát khỏi chấp trước, trở về với chân như, Phật tính.
Trong đại điện, các tăng nhân đang làm pháp sự, họ đọc tiếng Phạn, khiến khách dâng hương thoát ly phàm trần, bước vào thiền cảnh xa xăm. Rất nhiều người không thể thực sự thấu hiểu Thiền ý, không hiểu bồ đề nở hoa, nhưng lại cam tâm tình nguyện giam mình trong một quyển kinh thư, tự tại đến đi trong biển Phật mênh mông. Còn đức Phật vẫn dùng đôi mắt từ bi hiền hòa như cũ cúi nhìn chúng sinh mờ mịt, độ cho hết thảy những người có thể độ trên thế gian.
Đi qua Bất Nhị Pháp Môn lại là một thắng cảnh khác. Trên thềm đá là một tòa điện đường cổ kính tọa lạc, tên gọi là Đại Bi. Mà đằng sau của Đại Bi các chính là Huệ Sơn ẩn hiện. Ngước mắt dõi trông, trên tường đá còn khắc bốn chữ lớn “Tây Trúc Lưu Ngân”. (Tây Trúc lưu dấu) Nó đã dẫn chúng sinh đến Thủy Thiên Phật quốc xa xôi chỉ trong một sát na ngắn ngủi. Đứng sững dưới trời xanh mây trắng, ngắm nhìn vách núi miếu đài, ta thấy sinh mệnh nhỏ nhoi mà mênh mang biết mấy.
Sáng sủa sạch sẽ, tự viện dường như vĩnh viễn không vương bụi trần, đến mái ngói xanh cũng sạch lau sáng bóng. Mái hiên cong cong, cô độc ngạo nghễ dõi nhìn phương xa, không phải chờ đợi ai, cũng không phải tiễn biệt ai. Từng cánh cửa sổ cũ kỹ hoặc đóng hoặc mở, trên đó chạm trổ những hoa văn muôn hình vạn trạng, tinh xảo đẹp mắt, mà cũng không kém phần trang nhã thanh tịnh. Những người đến nơi này đều không kiềm lòng mà mơ một giấc mộng về Giang Nam.
Buổi hoàng hôn mưa gõ nhịp trên lá chuối, các tăng giả đẩy cửa nghe mưa với tâm trạng gì? Trong đêm trăng sáng như sương, họ đứng trước cửa sổ ngắm trúc với tâm thái gì? Những cảnh tượng phong nhã trữ tình ấy luôn luôn tồn tại và kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thời gian vô tình, sẽ tước bỏ rất nhiều ký ức tươi đẹp; thời gian cũng hữu tình, sẽ lưu lại rất nhiều quá vãng sáng trong.
Phật nói, quay đầu là bờ, không biết có phải tất cả trường hợp quay đầu đều có thuyền bè đợi chờ, chuyên chở chúng sinh sang bờ bên kia sen nở hay không? Lần tìm theo con đường cũ, lại qua một tầng cửa đá nữa. Một cây ngân hạnh cổ thụ có niên đại hơn sáu trăm năm tọa lạc trước miếu, kể cho khách đến chuyện cũ tang thương của nó. Nghe nói năm xưa, được một tiểu sa di trong chùa trồng, tên của người ấy đã bị xóa nhòa theo năm tháng thời gian, không ai hay biết. Mà cây ngân hạnh này lại trường tồn ngàn năm, lá vàng rụng xuống lá xanh mọc chồi, không màng đến ngày hôm qua.
Trên thế gian thực sự có cuộc sống vĩnh hằng không? Thế nhân biến chuyển, sớm đã thay đổi hoàn toàn, nhưng núi đá cỏ cây dường như vẫn giữ nguyên hiện trạng. Thế sự vô thường, không biết tòa cổ sát nghìn năm này có thể gánh được sương gió của bao nhiêu năm? Phật nói, tùy duyên tự tại, cho dù có một ngày trùng phùng hay không, đều không quan trọng.
Một tấm ngự bi[17] cao chót vót, trên đó khắc câu thơ năm xưa Càn Long ngâm vịnh khi du ngoạn chùa Huệ Sơn. Vị hoàng đế nhàn nhã đa tình này đã từng nhiều lần xuống Giang Nam, quyến luyến vùng bảo địa non nước linh thiêng này, không nỡ rời xa. Bỗng nhiên, tựa như nhìn thấy bóng dáng của vị đế vương ung dung tài hoa tôn quý này. Tài tử áo gầm xòe quạt, phong lưu phóng khoáng ấy là Càn Long sao? Ngài ra khỏi cung điện dát vàng khảm ngọc, tới Giang Nam, đây có phải giấc mộng mà ngài lạc mất hay không?
[17] Ngự bi: Bia đá do hoàng đế ban tặng.
Chúng sinh bình đẳng trước Phật, cho dù là đế vương khanh tướng hay là bình dân phố chợ, ly hoan bi hợp đều như nhau. Có một ngày, nguyện cho chúng sinh đều có thể hóa thân thành hoa sen, ngồi dưới núi Tu Di[18], nghe thiền đọc kinh, bình hòa yên ổn.
[5] Tu Di là tên của một ngọn núi trong truyền thuyết cổ Ấn Độ, còn gọi là Tu Di Lâu, Mạn Đà La. Theo quan niệm Phật giáo, núi Tu Di là vua của các ngọn núi, là trung tâm của thế giới, là vũ trụ quan của Phật giáo.
(3) Ký Sướng viên
Lại là một tầng cửa, đời người phải chăng có một tầng cửa như thế này, bước vào trong là không thể đi ra? Có cách nghĩ như thế thì vẫn chưa thể buông bỏ chấp niệm. Thế sự non sông chìm nổi bất định, đợi đến khi sinh mệnh kết thúc, tất cả đều hạ màn, quay về với tự nhiên.
Ký Sướng viên vốn là gia viên của họ Tần, chủ khu vườn này chắc chắn phải có một gia tài đồ sộ, mới có thể gửi gắm tình cảm một cách khoáng đạt sảng khoái vào non nước nơi đây. Phong cách của khu vườn cảnh này thuộc thời đại Minh, Thanh, tuy đã trải qua mưa gió mấy trăm năm nhưng vẫn bảo tồn được nguyên vẹn hiện trạng. Thủy tạ ca đài, lầu khắc thuyền hoa, vẫn là cảnh trí Giang Nam thuở nào.
Hành lang quanh co, gió mát thông thoáng, chầm chậm dạo bước, không có mục đích. Hai bên hành lang trồng đầy trúc xanh, ánh nắng xuyên qua ngói xanh, chiếu những vệt nắng loang lổ trên con đường đá, không ai có thể giẫm lên chiếc bóng của chính mình.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian